Advertisement

40% Off
Showing posts with label Bài Giang. Show all posts
Showing posts with label Bài Giang. Show all posts

Rồi tôi sẽ hạnh phúc?

Lúc tôi khoảng 14 tuổi, đang học trung học ở Luân Đôn. Cha mẹ và thầy giáo khuyên tôi đừng đi chơi đá banh buổi tối và cuối tuần mà nên ở nhà học bài để lo thi bằng trung học đệ nhất cấp. Họ nói là khi thi đậu thì tôi sẽ cảm thấy sung sướng, hạnh phúc.

Tôi nghe lời, lo học và thi đậu, nhưng tôi chẳng thấy hạnh phúc gì cả, vì sau đó phải học tiếp hai năm để thi tú tài. Cha mẹ và các thầy giáo khuyên tôi đừng đi chơi với bạn bè buổi tối hoặc chạy theo con gái cuối tuần mà nên ở nhà lo học bài. Họ nói bằng tú tài rất quan trọng, nếu thi đậu thì tôi sẽ sung sướng, hạnh phúc.

Một lần nữa, tôi lại vâng lời cha mẹ và các thầy giáo nên tôi thi đậu tú tài. Nhưng lại một lần nữa, tôi chả thấy sung sướng gì hết, vì sau đó tôi phải tiếp tục vào đại học, học ít nhất ba năm để lấy bằng cử nhân. Má tôi và các giáo sư (lúc này ba tôi đã mất) khuyên tôi không nên lân la ở các quán cà phê hoặc phòng trà, mà nên ở nhà lo học. Họ nói bằng cử nhân là một bằng cấp giá trị của đại học, nếu có được thì tôi sẽ hạnh phúc lắm.

Nhưng lần này tôi bắt đầu nghi ngờ. Bởi vì tôi có vài người bạn lớn tuổi hơn, đã học xong và có bằng cấp, nhưng hiện nay họ đang vất vả với những việc làm đầu tiên; có người phải làm thêm giờ để có tiền mua xe. Những người bạn này nói với tôi: "Khi nào tôi có đủ tiền mua được một chiếc xe hơi thì tôi sẽ sung sướng".

Đến khi họ có đủ tiền mua được chiếc xe hơi rồi, tôi thấy họ cũng chẳng sung sướng gì hơn. Bây giờ họ phải làm việc cực hơn để sửa soạn mua một cái gì đó, hoặc họ đang tìm kiếm một người bạn đời. Họ nói: "Khi nào tôi lập gia đình đàng hoàng thì lúc đó tôi sẽ hạnh phúc".

Sau khi lập gia đình, họ cũng chẳng hạnh phúc gì hơn. Tệ hơn nữa, họ phải làm thêm hai, ba công việc, lo để dành tiền mua nhà. Họ nói: "Khi nào mua được một căn nhà thì tôi hạnh phúc lắm".

Nhưng mua được nhà rồi, hàng tháng vẫn phải trả nợ ngân hàng, như thế thì đâu có hạnh phúc gì. Ngoài ra họ bắt đầu sinh con đẻ cái. Nửa đêm con khóc phải dậy thay tã hay cho nó bú. Khi con bệnh hoạn thì bao nhiêu tiền để dành phải trút ra lo thuốc men cho nó.

Và rồi hai mươi năm trôi qua trước khi họ có thể làm những gì mong ước. Họ nói: "Khi nào con cái tôi học xong, có nghề nghiệp và tự lập được thì chúng tôi sẽ hạnh phúc".

Đến khi tụi nó rời khỏi nhà ra riêng thì lúc đó đa số cha mẹ sắp đến tuổi về hưu. Do đó họ ráng làm tiếp vài năm để lãnh tiền hưu trí nhiều hơn. Họ nói: "Khi nào tôi về hưu thì lúc đó mới thật là sung sướng, hạnh phúc".

Nhưng trước khi về hưu, và ngay cả sau khi về hưu, họ bắt đầu biết đạo và đi nhà thờ. Bạn có để ý đa số những người đi nhà thờ là những người lớn tuổi không? Tôi hỏi tại sao bây giờ họ lại thích đi nhà thờ? Họ trả lời: "Tại vì sau khi chết, tôi sẽ được hạnh phúc!"

Những ai nghĩ rằng "khi nào tôi có được cái này, cái nọ thì tôi sẽ hạnh phúc", họ không biết rằng hạnh phúc đó chỉ là một giấc mơ trong tương lai. Giống như người đuổi theo cái bóng của mình, họ sẽ không bao giờ nếm được hạnh phúc trong cuộc đời.

Ajahn Brahm
Thích Trí Siêu dịch
Trích từ sách "Who ordered this truckload of dung?"
 

Chứng đạo là chứng cái gì?

 

Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Thời gian trôi qua quá nhanh, mới đó mà đã hai tháng rồi, giống như một giấc mộng. Nhìn lại sự tu tập của các con Thầy rất lo lắng, vì tu tập như vậy làm sao chứng đạt chân lí được. Phải không các con?

Muốn chứng đạt chân lý là phải tu tập xả tất cả chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp, chứ đâu tu tập ức chế ý thức để cầu không niệm. Tu tập Tứ Niệm Xứ mà cứ như tu tập Tứ Chánh Cần, tu như vậy làm sao đi đến chỗ chứng đạo được!

Chỗ này các con hãy lắng nghe và tìm hiểu nghĩa lý thực hành cho rõ ràng từng pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, rồi từng giai đoạn tu tập của các pháp môn này. Cùng một pháp môn nhưng giai đoạn đầu tu tập khác; giai đoạn sau tu tập khác huống là hai pháp môn khác nhau trong hai lớp khác nhau của Bát Chánh Đạo như: lớp Chánh Tinh Tấn và lớp Chánh Niệm. Lớp Chánh Tinh Tấn là phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, còn lớp Chánh Niệm là phải tu tập Tứ Niệm Xứ.

Vì thế cần phải hiểu rõ nghĩa như sau:

1- Tu tập Tứ Chánh Cần là “ngăn” và “diệt” các ác pháp để luôn luôn “sinh” thiện "tăng trưởng" thiện pháp. Các con nên lưu ý những danh từ: “NGĂN” và “DIỆT; SANH” và “TĂNG TRƯỞNG”. Vậy ngăn và diệt; sanh và tăng trưởng là nghĩa như thế nào? Còn tu tập như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con có nhớ không?

“Ngăn” nghĩa là ngăn ngừa, ngăn chặn, ngăn cản không cho vào.

“Diệt” nghĩa là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại.

“Sinh” nghĩa là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất.

“Tăng trưởng” nghĩa là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.

2- Tu tập Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu. Các con nên lưu ý những danh từ: “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. Vậy quán, nhiếp phục, tham ưu nghĩa là gì? Và cách thức tu tập “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con còn nhớ không?

“Quán” nghĩa là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận.

“Nhiếp phục” nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không còn giận hờn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.

“Tham ưu” nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp.

Có hiểu nghĩa rõ ràng như vậy các con mới tu tập đúng pháp thì sự chứng đạt chân lí mới nhanh chóng và dễ dàng. Các con đang hiểu sai pháp nên tu hành không đúng. Tu Tứ Niệm Xứ mà cứ tu tập Tứ Chánh Cần như trên đã nói, chỉ còn năm tháng nữa mà tu sai làm sao chứng đạo. Hãy mau mau sửa lại sự tu tập cho đúng, kẻo phí thời giờ vô ích.

Tu tập như vậy làm sao chánh pháp của Phật thường còn? Tu mà không chịu khó quan sát xem xét những giới luật mình đang thọ và giữ gìn (Mười Giới Đức Thánh Sa Di), có vi phạm giới nào không? Giới luật là đời sống phạm hạnh của người tu, là pháp ly dục ly ác pháp, thế mà các con không giữ gìn cho trọn vẹn luôn luôn vi phạm giới luật, để trở thành người phá giới, nhất là giới hạnh độc cư.

Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi miệng, thân, ý. Các con không giữ gìn nó thì làm sao tâm ly dục ly ác pháp cho được; tu mà không giới luật thì không xả tâm chỉ biết ức chế tâm và còn để tâm dung ruổi chạy theo dục lạc ở đời; theo tình cảm của cuộc sống người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẽ, để ganh ghét, để thù hận với nhau, thì còn nghĩa lý gì là tu hành nữa. Phải không các con?

Tu mà nói chuyện người này đúng, người kia sai; tu mà còn so bì hơn thua với nhau từng chút, từng ly; tu mà đi rình ngó người này tu như thế này, người kia tu như thế kia, thì làm sao chứng đạo được các con?.

Nhìn thấy sự tu tập của các con mà Thầy rất buồn lòng. Buồn là nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người làm sao có người dựng lại được, khi các con tu tập như vậy. Tâm Thầy lại còn xót xa hơn, khi nghĩ đến hạnh phúc của loài người trên hành tinh này quá mỏng manh, nhất là loài người không bao giờ có được hạnh phúc ấy. Hiện giờ các con là những người đại diện cho mọi người mà hiểu lầm và tu hành sai pháp như vậy. Rồi đây làm sao có người thay thế Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật? Thầy đã già rồi, đừng ỷ lại vào Thầy. Phật sống đến 80 tuổi. Ông A Nan sống 120 tuổi, nhưng có người còn bảo Ông A Nan già lú lẫn...

Ôi! Chúng sanh ít phước, làm sao thọ hưởng được nền đạo đức ấy. Các con là những người đại diện cho muôn người, vạn triệu người trên hành tinh này như trên đã nói mà tu tập như vậy thì còn hy vọng gì nữa các con! Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn và mãi mãi các con sẽ mất Thầy.

Còn năm tháng nữa, chứng nào tật nấy làm sao các con bỏ được tâm bỉ thử đây! Làm sao sống được đạo đức làm người sống không làm khổ mình, khổ người. Tu hành mà các con luôn thấy lỗi người không thấy lỗi mình thì đạo đức gì đây!

Nhìn các con tu hành lòng Thầy đau xót như ai cắt ruột. Các con có biết không? Còn năm tháng nữa, tu như vậy làm sao chứng đạo được các con? Một lần nữa, nếu không có người chứng đạo, Thầy sẽ ra đi! Và đi! Đi mãi!!! Nếu còn duyên Thầy sẽ ẩn bóng viết xong bộ sách “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI”, rồi vĩnh biệt các con.

Các con ở lại mà sống với cuộc đời đầy ác pháp, đầy nước mắt và đau khổ. Chừng đó các con có nhớ Thầy, thì hãy nhớ "giới luật và Tứ Niệm Xứ". Giới luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ là thầy của các con; là ngọn đuốc soi đường cho các con đi; là chỗ nương tựa vững chắc cho đời tu hành của các con. Các con nhớ kỹ lời dạy này, đừng bao giờ quên hỡi các con?

Thấy pháp hành các con áp dụng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ ràng, do đó khi thực hành vào pháp xả tâm trên Tứ Niệm Xứ thì lại ức chế tâm, tu như vậy không đúng theo lời Thầy dạy. Do không hiểu đúng lời Thầy dạy nên các con tu hành thấy khó khăn và vất vả, thật đáng thương. Biết làm sao bây giờ đây, sự hiểu biết của các con có giới hạn, nên lời nói và sự cố gắng của Thầy để diễn đạt cho các con hiểu, nhưng sự hiểu của các con còn hạn cuộc trong không gian và thời gian của ý thức. Vì thế, các con chỉ hiểu ở mức độ đó, không thể nào hiểu hơn được nữa, nên cũng đành chịu thôi vậy.

Ở đây, chỗ các con đã hiểu sai về Phật pháp, nhất là về sự chứng đạo của Phật giáo. Cho nên hiện giờ quý sư, quý thầy, quý ni và quý cư sĩ đang tu theo Phật giáo đều nghĩ rằng: “chứng đạo là chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại ghê gớm lắm”.

Hiểu như vậy là hiểu sai Phật giáo. Phật giáo là nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, mà mọi người lại hiểu Phật giáo là một tôn giáo thần quyền, là một loại thiền định siêu đẳng, là một thế giới ngoài thế giới của loài người, nên kinh sách phát triển Bắc tông cũng như kinh sách Nam tông đều hướng dẫn tu tập ức chế tâm và còn nghĩ rằng: con người cần phải nhờ vào oai lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ và còn phải tu tập nhiều đời nhiều kiếp. Nhất là còn phải tạo nhiều phước báu hữu lậu như: bố thí, cúng dường xây dựng chùa, tháp, đúc chuông, tạc tượng Phật và làm từ thiện v.v...

Nhưng thật sự không phải vậy. Kinh sách Phật giáo Nguyên thủy đức Phật đã khẳng định trong bài chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Sau buổi thuyếp pháp đó, năm anh em Kiều Trần Như đều chứng pháp nhãn thanh tịnh và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán. “Nghe xong bài thuyết pháp này và một bài thứ hai có đầu đề “Anttalakkhana sutta”, bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu trở thành A La Hán” (Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni do HT Thích Minh Châu biên soạn trang 29).

Đọc đoạn kinh này xong chúng ta biết rằng Phật giáo không phải là pháp môn khó tu tập như thiền Yoga và thiền Tông Trung Hoa. Đối với Phật giáo chỉ cần hiểu đúng và sống đúng là chứng quả A La Hán. Danh từ chứng đạo đã khiến cho mọi người hiểu nó qua trí tưởng tượng nhiều hơn, nên chứng đạo là chứng cái gì cao siêu và phi thường vượt ngoài tầm tay con người. Vì thế, người ta thấy nó quá khó khăn vô cùng. Tư tưởng thấy quá khó khăn cũng là một điều cản trở rất lớn trên bước đường tu tập chứng đạo.

Như đoạn kinh trên đã nói: năm anh em Kiều Trần Như nghe xong pháp và chứng quả A La Hán đâu có khó khăn gì! Vì thế, chúng ta nên xét kỹ lại các pháp đang tu tập, nhất là pháp môn Tứ Niệm Xứ thì sự chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con?

Nhưng vì mọi người đã hiểu lầm lạc. Họ đâu biết rằng: “Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là một cái tâm bình thường như mọi người, nhưng không có chướng ngại pháp nào làm cho tâm người ấy bị dao động”.

Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người v.v... mà chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Chứng đạo chỉ là sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng như lúc nào không bị kèm chế, không bị bắt buộc phải tu tập như thế này, phải làm như thế kia. Trong sự chứng đạo chỉ có một điều quan trọng nhất, đó là phải sống đúng giới luật như trong bộ sách Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống tập I đã dạy. Chúng ta phải quyết tâm buông xả đời sống nhân quả đang hiện có trong thân tâm của chúng ta.

Mục đích tu hành của chúng ta là làm chủ bốn nỗi đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh và chết, nhưng muốn làm chủ sanh, già, bệnh và chết thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng: Cái gì làm cho chúng ta bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết?.

Muốn biết rõ được điều này chúng ta hãy vào kinh Trung Bộ tập I, tạng kinh Việt Nam, trang 364, đọc Kinh Thánh Cầu mà đức Phật đã dạy:

“Này các Tỳ kheo, có hai sự tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỳ kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây này các Tỳ kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm.

Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng bạc là bị sanh. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.

Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng bạc là bị già. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già.

Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh; vàng bạc là bị bệnh. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tầm cầu cái bị bệnh.

Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị chết? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị chết; vàng bạc là bị chết. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tầm cầu cái bị chết.

Và Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu; gà và heo là bị sầu; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sầu; vàng bạc là bị sầu. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tầm cầu cái bị sầu.

Và Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng bạc là bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu”.

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết, đó là sanh y, tức là những vật chất, những người thân. Những vật chất và những người thân xung quanh chúng ta gọi chung là các pháp mà chúng ta lầm tưởng những pháp đó đang phục vụ đời sống của mình và mang lại hạnh phúc, nhưng khi những vật chất đó càng nhiều hơn thì sự khổ đau cũng nhiều hơn. Những vật chất đó càng nhiều thì chính chúng ta là những người nô lệ cho những vật chất đó, đang bị chúng sai bảo và dẫn dắt chúng ta vào cảnh giới ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết như trong kinh Thánh Cầu đã dạy ở trên và kinh Thập Nhị Nhân Duyên đã dạy dưới đây: “Có duyên sanh thì ắt phải có duyên ưu bi, sầu khổ và bệnh, chết”, và như vậy hai bài kinh đã dạy không sai khác.

Muốn thoát ra khỏi bốn sự đau khổ này chúng ta hãy đọc tiếp kinh Thánh Cầu để được đức Phật chỉ đường: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỳ kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu”.

Sau khi đọc đoạn kinh trên đây các con có biết cách thức tu tập xả ly và từ bỏ cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu và bị ô nhiễm chưa? Nếu không biết cách thức tu tập xả ly từ bỏ sanh, già, bệnh, chết ... thì các con sẽ lầm lạc vào chỗ tu tập ức chế thân tâm, có thể dẫn đến chỗ rối loạn thân kinh như trên Thầy đã dạy.

Các con phải biết, tu hành theo Phật giáo là một sự sống bình thường, chứ lý đâu lại diệt hết ý thức phân biệt vọng niệm thiện pháp của mình, cho nên có vọng tưởng hay không vọng tưởng đều là ý thức bình thường của mỗi con người, nhưng người tu hành sống đời đạo đức không làm khổ mình khổ người thì không chấp nhận những vọng tưởng có tính bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Vì thế khi có các vọng tưởng đó thì dùng đúng pháp của Phật đã dạy để xả ly, để từ bỏ, để đoạn diệt, không nên để nó lưu lại trong tâm dù một phút, một giây, phải đuổi đi một cách quyết liệt, một cách dũng cảm, một cách gan dạ; phải đầy đủ nghị lực chiến đấu với những vọng tưởng và các cảm thọ đó. Tất cả những vọng tưởng đó là ác pháp, là cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Cho nên chúng ta đều phải ngăn và diệt cho tận gốc cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết này.

Tu hành chỉ có làm một việc như vậy thôi, chứ có tu tập gì nhiều đâu! Còn những vọng tưởng không sanh, không già, không bệnh, không chết thì để nó tự nhiên, có gì mà phải ngăn diệt nó. Nó là ý thức của chúng ta, nó đâu phải là chướng ngại pháp.

Vậy mà các con hễ thấy niệm là diệt, là tìm mọi cách ức chế cho đừng có niệm như Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Như kinh Di Đà dạy: “...Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật...” . Như kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh ký tâm” Đó là phương pháp tu hành của Đại thừa và Thiền tông ức chế ý thức tối đa khiến cho người tu hành rơi vào thiền tưởng, Do rơi vào thiền tưởng mới tưởng con người có Phật tánh; mới tưởng có thế giới Cực Lạc, Thiên Đường; do rơi vào thiền tưởng nên không biết đường đi đến cứu cánh, giải thoát hoàn toàn. Vì thế họ phải tự an ủi cuộc đời tu hành của mình bằng cách phải tu tập nhiều đời, nhiều kiếp.

Các con hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Thế nên, các Tỳ kheo không nên phóng dật. Ta chính nhờ không buông lung (phóng dật) mà thành Chánh Giác, vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung (phóng dật) mà có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của đức Như Lai”. Kinh Du Hành trang 207 Trường A Hàm tập I thuộc tạng kinh Việt Nam. Các con có nghe rõ lời dạy này chưa?

Lời đức Phật dạy quá rõ ràng: tâm không phóng dật tức là tâm không buông lung, hai chữ buông lung xác định nghĩa rất cụ thể: tâm không buông lung là tâm không chạy theo dục lạc và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm. Các con nên phân biệt cho rõ: Tâm không buông lung có nghĩa là ý thức không khởi niệm ham muốn cái này cái kia, còn tâm không niệm có nghĩa là ý thức không khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp môn của ngoại đạo, còn Phật giáo ý thức không phóng dật, không buông lung chạy theo pháp trần, nhưng các niệm thiện vẫn còn. Vì thế đức Phật dạy: “Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được” Cho nên tâm không phóng dật, nhưng các pháp lành từ nơi tâm không phóng dật mà sanh ra.

Đọc câu kinh này chúng ta thấy người tu hành có hết vọng tưởng không? Tại sao tu hành chúng ta lại hiểu là phải diệt hết vọng tưởng? Diệt hết vọng tưởng để trở thành cây, đá thì còn ý nghĩa gì là sự giải thoát?

Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ đâu phải tu là làm cho chúng ta trở thành người ngu ngu, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai, nói nói, cười cười một mình.

Tu là đem lại cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc xéo, liếc ngang, không nói xấu, nói lỗi người khác, không li gián người này với người kia.

Tu là đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, thoải mái, chứ đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước cao.

Tu là tĩnh giác, nhưng tĩnh giác đâu có nghĩa là chỉ có biết cảm nhận bước đi và hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tĩnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp.

Nếu các con hiểu đúng nghĩa như vậy thì sự tu tập đâu có sai pháp và chứng đạo đâu có khó khăn mệt nhọc gì. Cho nên nói tu tập là nói theo tôn giáo, nhưng nói theo tôn giáo thì người ta lại hiểu tu tập là ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, tụng kinh, bắt ấn, cầu siêu, cầu an, lạy lễ hồng danh Phật để sám hối cho tiêu tai, giải tội v.v...

Tu tập nói theo đời sống bình thường của con người là sửa sai những điều làm khổ mình, khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngậm; sửa sai những lời nói ác, lời nói dối, lời nói li gián khiến cho mọi người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người. Vì sửa sai để trở thành con người tốt, con người có đạo đức. Cho nên tu theo Phật giáo chỉ có sửa sai tâm tính của mình, vì thế đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” hoặc “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Những lời dạy trên đây của đức Phật là những lời dạy để sửa sai những thói hư tật xấu của mình; để mình trở thành người tốt; người có đạo đức; người không còn thói hư tật xấu nữa; người sống luôn luôn không làm khổ mình, khổ người.

Người chứng đạo rồi cũng giống như người bình thường nhưng lại phi thường vì sanh, già, bệnh và chết không sai khiến thân tâm họ được, còn người chưa chứng đạo thì bị sanh, già, bệnh và chết tác động vào thân tâm khiến cho thân tâm bất an thường bệnh tật, phiền não, khổ đau, sợ hãi, lo lắng, thương ghét, giận hờn v.v...

Một lần nữa người chứng đạo và người bình thường chỉ khác nhau là ở chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Người sống bình thường chỉ cần biết đâu là con đường thiện và đâu là con đường ác và không sống theo con đường ác, chỉ sống theo con đường thiện. Người biết sống được như vậy là người chứng đạo.

Cho nên chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Tu đâu có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình, khổ người; tu là bảo vệ và giữ gìn trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và cảm thọ, tức là giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự từ ngày này sang ngày khác.

Sau hai tháng tu hành xả tâm vi tế trên Tứ Niệm Xứ, trên gương mặt của quý sư, quý thầy, quý cô và quý cư sĩ nam, nữ sao không hân hoan, sao không thoải mái, dễ chịu, trông có vẻ khắc khổ lắm vậy.

Cho nên các con cần phải xác định cho rõ ràng: Tu chứng là chứng cái gì?

Như trên đã nói, đâu phải tu hết vọng tưởng là chứng đạo như Thiền Tông dạy: “Chẳng niệm thiệm niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Tu hết vọng tưởng để làm gì các con? Nó không có giải thoát bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết được, hết niệm để chạy theo dục tưởng hỷ lạc.

Đâu phải tĩnh giác là chứng đạo? Tĩnh giác chỉ là giai đoạn đầu mới tu tập tỉnh thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.

Đâu phải tu có thần thông là chứng đạo? Thần thông chỉ là một trò ảo thuật của tưởng thức để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin.

Tu đâu phải ngồi thiền nhiều là chứng đạo? Ngồi thiền nhiều nhập định tưởng. Định tưởng là một loại thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Tu mà nhập vào thiền tưởng để làm gì? Có ích lợi gì cho mình, cho người. Xưa đức Phật nhập vào các định tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu xong Ngài ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách. Có đúng như vậy không các con?

Chứng đạo là chứng ở trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.

Chứng đạo là chứng một đạo lực có Bốn Thần Túc để thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.

Cho nên, trước khi chưa chứng đạo, những người muốn tu tập chứng đạo phải biết rõ trên đường đi đến chứng đạo. Và còn phải biết rõ sự chứng đạo lợi ích cho mình cho người như thế nào? Nếu chưa hiểu biết rõ sự lợi ích như trên đã nói thì đừng nên tu tập, vì có tu tập cũng chẳng lợi ích gì cho ai cả, còn phí sức, phí tiền của vô ích.

Đường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tĩnh giác, nếu thiếu tĩnh giác thì không tu tập được.

Vậy tĩnh giác như thế nào?

Khi tâm ham muốn một điều gì thì biết ngay tâm ham muốn điều đó, đó là tâm tĩnh giác. Khi biết tâm tĩnh giác được như vậy thì ý thức bảo: “Tâm không được ham muốn, ham muốn đó là ác pháp, là pháp khổ đau”. Ý thức lệnh bảo như vậy thì tâm chấm dứt ham muốn.

Khi tâm đang sân giận, ý thức bảo: “Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp ác, là pháp đau khổ” khi tác ý như vậy là tâm không còn sân giận.

Khi thân già yếu, ý thức bảo: “Thân vô thường, nhưng không được yếu đuối run rẩy phải quắc thước”; khi tác ý như vậy thì thân lần lần không còn yếu đuối và run rẩy, luôn luôn quắc thước.

Khi thân bị bệnh, ý thức bảo: “Thân phải mạnh khỏe, tất cả bệnh tật đều phải lui ra khỏi thân”. Lệnh của ý thức như vậy thì bệnh lần lần lui ra sạch.

Khi thân sắp chết, thở không được thì ý thức bảo: “Thân phải thở lại bình thường, không được chết”. Ý thức lệnh như vậy thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường.

Khi thân đang mạnh khoẻ bình thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý thức ra lệnh: “Hơi thở phải tịnh chỉ, từ bỏ thân tứ đại này”. Lệnh như vậy thì hơi thở lần lần ngưng hoạt động, tâm nhập vào chỗ bất động Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Niết Bàn. Lúc bấy giờ tứ đại tan rã.

Trên đây là năng lực của những người tu chứng đạo, ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên người tu chứng đạo làm chủ sự sống chết, không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Do làm chủ sự sống chết tự tại như vậy, nên mọi người ai cũng quyết tâm tu cho bằng được, nhưng lại tu sai, rơi vào chỗ ức chế tâm. Theo Phật giáo tu chứng đạo không có khó khăn, nhưng vì không hiểu biết rõ ràng pháp tu hành nên trở thành khó khăn như trên đã nói. Tu khó sao đức Phật tu tập chỉ có 49 ngày chứng đạo? Tu khó sao Thầy tu có sáu tháng rưỡi chứng đạo? Tu khó sao năm anh em Kiều Trần Như nghe bài pháp Tứ Diệu Đế và bài pháp vô ngã liền chứng pháp nhãn thanh tịnh và tu tập không bao lâu chứng quả A La Hán.

Phật pháp đâu phải khó tu, chỉ vì chúng ta nhận lầm pháp hành nên tu sai. Cho nên muốn tu tập theo Phật giáo thì những gì cần thông hiểu phải thông hiểu cho rõ ràng (giác ngộ) về các pháp hành và nhận ra cho được trạng thái chân lý, đó là điều cần thiết mà mọi người tu hành nên lưu ý. Vì thế, đức Phật dạy: “Nên thân cận thiện hữu tri thức”. Nhờ có thân cận thiện hữu tri thức chúng ta mới hiểu rõ các pháp hành và chân lý. Khi hiểu rõ các pháp hành là chúng ta biết cách thức sống để hộ trì chân lý. Sống để hộ trì chân lý thì đâu có cái gì để tu. Không có cái gì để tu thì có cái gì khó. Phải không các con?

Nói tu tập là nói theo tôn giáo, chứ Phật giáo nói tu tập là nói sống không làm khổ mình, khổ người. Sống không làm khổ mình khổ người là hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý. Người nào biết sống hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý là không hiểu sai Phật pháp. Còn ngược lại tu khác sống khác là không hiểu Phật pháp, nên tu tập gần chết mà không chứng đạo. (Chân lý ở đây được hiểu là "Tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự trước các dục, ác pháp và các cảm thọ.")

Người hiểu đúng chỉ cần sống biết xả các chướng ngại pháp là chứng đạo. Trong thời đức Phật còn tại thế, khi người ta nghe Phật thuyết pháp xong là chứng pháp nhãn thanh tịnh. Chứng pháp nhãn thanh tịnh rồi từ đó họ biết cách sống, luôn luôn xả những chướng ngại pháp để giữ gìn và bảo vệ chân lý, nhờ đó chẳng bao lâu họ chứng đạo.

Dưới đây Thầy sẽ trích dẫn ra những đoạn kinh Phật thuyết mà người nghe xong liền chứng các quả A La Hán.

PHỤ LỤC 1:

Những bài phụ lục được trích dẫn ra đây là nhằm làm sáng tỏ đường lối tu tập của Phật giáo để mọi người hiểu rằng chứng quả A La Hán của đạo Phật không phải l khó khăn, chỉ cần có quyết tâm ly dục ly ác pháp thì chứng đạo dễ dàng.

ĐỨC PHẬT THÍCH CA VỀ THĂM GIA ĐÌNH

“Thân phụ đức Phật, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu, nghe tin đức Phật đã thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả Rajagaha (Vương Xá), thỉnh cầu đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A La Hán. Vị sứ giả thứ 10 là Kaludàyi, vốn là người bạn thân của đức Phật, lúc Ngài còn là Thái tử. Ông này đến Vương Xá, nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán như chín vị sứ giả trước. Kaludàyi không quên chuyển tới đức Phật lời phụ vương mời đức Phật về thăm gia đình. Đức Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử”. (Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT Thích Minh Châu biên soạn)

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình, vợ con, của cải, tài sản, quan chức v.v… để được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh ra khổ của kiếp người, đó là một sự thật không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên khi nghe Phật thuyết pháp xong thì các quan liền buông xuống hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.

Trên đây là các quan chứ không phải là tu sĩ Bà La Môn đã có tu. Vậy khi nghe pháp và chứng đạo chỉ có một thời gian rất ngắn. Như vậy pháp Phật tu hành đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Chỉ một bài kinh này cũng đủ xác định: Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng đạo đâu có lâu dài. Có đúng như vậy không các con?

PHỤ LỤC 2

ĐỨC PHẬT VÀ PHỤ VƯƠNG SUDDHODANA

“Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Được nghe đức Phật thuyết pháp. Vua chưng ngay Sơ quả (Tu Đà Hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai (Tư Đà Hàm) , còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ ba đức Phật giảng kinh Dhammapala Jataka cho vua cha và vua cha chứng Thánh quả thứ ba (A Na Hàm. Sách kể rằng: sau này trên giường bệnh vua cha được đức Phật về thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A La Hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm đức Phật tròn 40 tuổi.” (Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 36 do HT Thích Minh Châu biên soạn)

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy một người già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết pháp xong sống biết buông xả ly dục ly ác pháp liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền chứng quả A La Hán và nhập Niết Bàn. Như vậy Phật pháp đâu phải khó tu.

Tu khó là do các con chịu ảnh hưởng của Đại thừa và Thiền Tông, cứ lo tu tập ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, nên tu khó và tu mãi chẳng đi đến đâu. Thấy người xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày nay Thầy khô cổ giảng dạy sách tấn khích lệ các con buông xả:

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn sự vô thường buông xuống đi!

Các con không dám buông xả nên từ năm này đến năm khác tu cứ giậm chân tại chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã nói. Thành ra tu tập cho tới bây giờ mà chưa có người nào chứng quả A La Hán. Quả A La Hán, tu tập đâu có khó khăn như các đoạn kinh trên đã dạy. Thầy sẽ chứng minh thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.

PHỤ LỤC 3

ĐỨC PHẬT VÀ LAHULA (LA HẦU LA)

“Rahula (Hán dịch La Hầu La)là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là Thái tử. Lần đầu tiên đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được mẹ và dì Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahala được chấp nhận vào tăng đoàn, và được đức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ. Một trong những bài kinh nổi tiếng, đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La sau khi La Hầu La xuất gia, là kinh Ambalatthika Raluhovada sutta, trong đó đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.. Nhờ luyện tập pháp tu định niệm hơi thở, theo lời chỉ dẫn của đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài La hầu La chứng quả A La Hán. Ngài qua đời trước Phật và Xá Lợi Phất. Trong “Trưởng Lão Tăng Kệ”. Sau khi Ngài chứng quả A La Hán, Ngài có hai bài kệ như sau:

Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tình tốt đẹp
Được bạn có trí gọi
La Hầu La may mắn
Ta là con đức Phật
Ta lại được pháp nhãn
Các lậu hoặc đoạn tận
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới bất tử”

Đối với La Hầu La qua đoạn kinh trên chúng ta thấy La Hầu La có nghe pháp, có tu tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng không lâu. Như vậy trong thời đức Phật người nào được nghe Phật thuyết pháp rồi quyết tâm từ bỏ ly dục ly ác pháp và cuối cùng người nào cũng chứng quả A La Hán hết chỉ có những người nghe pháp rồi bỏ qua không chấp nhận và không thiết tha xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ chứng đạo được.

Muốn tu chứng đạo mà đời không dám bỏ thì tu làm sao chứng được. Trong bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống tập II Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”. Đây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất gia theo Phật giáo. Người mới xuất gia là người phải buông xả sạch đời sống thế gian. Cho nên những người nghe pháp xong liền xin Phật xuất gia thì không bao lâu họ sẽ chứng quả A la Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế tục.

 Mười vị sứ giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời Phật về thăm cố đô, nhưng khi gặp Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình, vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi.

Để kết luật những lời tâm huyết này Thầy xin nhắc các con, hãy nên lưu ý pháp tu Tứ Niệm Xứ “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu”.

Bài kinh dạy như vậy nhưng rất nhiều người hiểu sai thành thử chia pháp môn Tứ Niệm Xứ thành ra bốn pháp tu tập. Cho nên có trường thiền chuyên tu QUÁN THÂN; có trường thiền chuyên tu QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu QUÁN TÂM; có trường thiện chuyên tu QUÁN PHÁP.

Đây là một cái sai của các nhà học giả tu hành chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ, rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp.

Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn xả mọi chướng ngại trên thân tâm, cho nên nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán tâm, quán thọ và quán pháp.

Khi ngồi tu Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì tâm họ ở đâu? Đã vô sự thì ý thức quán thân nó, chứ nó ở đâu?

Quán thân không có nghĩa là nó đang tư duy suy nghĩ, quán ở đây có nghĩa là nó tĩnh giác cảm nhận toàn thân tức là nó đang quan sát thân. Cho nên thân nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; tâm nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; thọ nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; pháp có chướng ngại gì thì nó liền biết. Nhờ biết đó mà nó dùng pháp "như lý tác ý" đuổi đi các chướng ngại ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp thì ý thức lúc biết thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm, nếu khởi niệm là tâm các con đang phóng dật.

Mục đích tu tập của TỨ NIỆM XỨ là tâm không phóng dật. Chỉ khi nào trên thân, thọ, tâm và pháp có chướng ngại pháp thì mới tác ý xả, còn không chướng ngại thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp

Các con nên lưu ý cách thức QUÁN TỨ NIỆM XỨ, nếu không lưu ý các con sẽ quán sai thành ra quán ức chế tâm, chứ không phải quán Tứ Niệm Xứ.

Pháp môn này đức Phật tu tập 49 ngày đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo. Ông Châu Lợi Bàn Đặc cũng do tu tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước khi nhập Niết Bàn đức Phật đã di chúc lại cho người đời sau: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm Thầy, đừng lấy ai làm thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc”.

Còn năm tháng nữa chúc các con chứng quả A La Hán để không phục lòng Thầy mong đợi.

Thân thương chào các con.

NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT CỦA THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Trích từ sách “Những Bức Tâm Thư tập I” trang 54-65
Và đây là bộ sách của Thầy Thích Thông Lạc mà tác giả Blog đã sưu tập (tạm thời), bạn có thể tải về: Click tại đây

Đời lữ khách – Một kiếp người mộng ảo[1]

 

“Hương đất trời trổi khúc, hóa hiện những phương trời viễn mộng. Kiếp người như cánh nhạn chiều thu, thở hương đất, uống khí trời, dưỡng chí chân nhân. Hãy bắt đầu từ nơi không bắt đầu và kết thúc từ nơi chẳng kết thúc. Kiếp người mênh mang mà rõ ràng giữa chiêm bao mộng mị.”

Giấy trắng lưu hồn người cô lữ
Kết thành hương in dấu cuộc rong chơi

Trong cuộc chơi sanh – tử, ai thả hồn theo năm tháng đầy vơi? Ai lưu dấu chân trần trên cát bỏng trong cõi sa mạc hoang vu mộng mị? Câu trả lời là dấu chấm than đậm nét phong trần, thấm đậm sương đêm, mịt mù sương khói ngàn năm du thủ.

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh núi này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.

 Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn bức tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.[2]

Dòng thời gian trôi chảy bất tận, mọi kỷ vật không đáp ứng được thị hiếu con người dần dần chìm vào bụi trần quên lãng thời gian, trôi vào quỹ đạo quá khứ quy ước. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại như nó từng tồn tại, vẫn có mặt giữa cuộc đời in dấu ấn nguyên sơ, soi tỏ kiếp người mộng ảo.

Khi ánh nhật bừng dậy trên đỉnh Cô liêu, xua đi sương khói mênh mang; lữ khách rũ lớp bụi thời gian đeo bám trên vạt áo phai màu năm tháng, và những con sóng bạc trường giang trổi dậy, cuốn phăng mọi sự ô uế của cuộc đời, mở ra những dòng thơ mới, dệt nên cuộc lữ mênh mông.

Ai đã từng bôn tẩu trên cuộc trình để tìm lại cánh bạch mai đã khuất, cố níu lại một chút gì mộng mơ đã vụt mất của kiếp làm người; và ai đã lênh đênh để đeo đuổi một tương lai xa vời ở cõi hoang đàng mông lung thăm thẳm, hy vọng ánh nắng vàng le lói chốn xa xăm.

Ta lênh đênh như cánh nhạn theo bước chân em trong từng phút hiện tại để nắm bắt, lưu giữ một nét đẹp phôi pha đang lưu hiện giữa nền trời cổ độ, phiêu lạc chốn phồn hoa đô hội “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương[3]

Rốt cùng ta được gì, ngoài đôi chân trần rát bỏng? Tay vẫn hoàn không. Đôi mắt đẫm sâu niềm khắc khoải, hồn trôi dạt theo con nước lênh đênh, bồng bềnh trong cuộc tử – sinh. Tấm thân tàn lê mình trong gió sớm mùa xuân kiêu kì của dòng xanh.

Ai có nghe chăng? Một linh hồn đương trổi khúc. Đàn dương cầm ai đợi  lúc chia phôi. Niềm lưu lạc gãy lên rồi. Dìm trong cõi mộng cực hồi cung mê… Thật ê chề cho kẻ lữ khách, mãi quên mình theo sóng bạc trường giang, đâu lữ thứ muôn trùng? Đâu vong giả giả vong? Và đâu là quê hương đích thực? “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách. Nhật viễn gia hương vạn lý trình”;[4] lênh đênh như chàng mộng mị, phiêu bồng mong lưu ảnh giữa hư không.

Nỗi ray rức ấy thẩm thấu thân tâm chàng nghệ sĩ trong cuộc ruỗi rong đến điêu linh mà chưa hề nắm được chút hơi gió trong lành của mùa xuân đô hội. Ngày lại qua ngày lùi dần vào bóng tối nhân sinh:

Ma đưa lối quỷ dẫn đường
Lại tìm  những chốn đoạn trường mà đi.

Ngày kia, trong cuộc chiêm nghiệm về linh ảnh của mình, chàng kịch sĩ kiệt sức thu mình trên đỉnh Cô phong. “Những lúc tâm hồn ta tuột dốc đến điểm tận cùng sâu thẳm của vực sâu thì đó cũng là điểm cao nhất của sự vươn đến.” Nó trổi dậy như ca khúc tình yêu thơ mộng. Nó trổi liên miên trong từng khoảnh khắc, trong từng sát na của thời gian và không gian sinh diệt.

Thời gian xưa hiện về như dòng thác đổ, một thuở Kiều Trần Như, người anh cả đang lang thang trong cuộc lữ, muốn tìm bóng dáng ngày xưa. Bản lai diện mục. Đâu? Ở đâu?

Những năm tháng trôi nổi bồng bềnh trong cuộc đời, lênh đênh như cánh hạc phiêu du, đâu là nguồn cội? Đâu là bến đỗ? Phương nao trời lạ hương cánh đồng hoang. Trầm mình trong rừng sâu, khí thiêng nước độc, khổ hạnh thanh sơn cùng cốc, một hạt mè nuôi thân tứ đại; bao nhiêu phương pháp có thể nghĩ được là có thể thực tập. Khổ hạnh ép xác; buông lung thoả mãn các dục. Rốt cùng chân lý nằm đâu giữa đất trời bao la, mênh mông, không một gợn mây đầu hạ hay cuối thu; không một chút ánh sáng le lói cuối chân trời mộng và thực. Mọi sự truy tầm dường như bước vào ngõ cụt, bế tắt.

Một thoáng gió thu mời gọi, mây trắng bàng bạc vây quanh. Tiếng rống trầm hùng của Sư tử chúa vang vọng giữa núi đồi cô tịch. Mọi trói buộc bị chặt dứt. Nào ngã ái, ngã mạn, ngã si và ngã kiến, tan nát như bụi bặm, biến mất giữa hư không. Khổ – Tập – Diệt – Đạo, chân lý bao trùm vũ trụ, gói gọn tất cả mà cũng có mặt trong cái nhỏ nhất của thế gian. Mọi phạm trù triết học Đông – Tây cũng không ngoài khuôn khổ ấy. Tiếng kêu của con nhái ở trời Tây đánh động cánh bướm đang ngủ vùi trên cành non của lá ở trời Đông. Con bướm trở mình, bay đi làm chao nghiêng cả bầu trời sinh – diệt.

Kiều Trần Như, tiếng gọi vang vọng, con đường “Trung Đạo”[5] có mặt trong cuộc sống thường nhật, trong đời sống tu tập. Khổ hạnh đâu rồi? Buông lung các dục còn mô? Kiếp tu hành trên  ngọn Tuyết sơn, những Đạo sĩ khắc khổ điểm thắm nụ cười và thầm gọi: Thế Tôn có mặt giữa cuộc đời!

Một tiếng gọi nhỏ vang lên từ hồn sâu thẳm. Chàng giật mình tỉnh giấc mộng Vu Sơn, đôi mắt long lanh sáng ngời. Tất cả chỉ là mộng, như ánh chớp chiều tà, như nồi kê chưa chín ngày xưa…

Ta cúi xuống nhặt dấu chân trên cỏ
Thấy tiền thân sương ướt áo chưa khô [6]

Chỉ một tích tắc, chỉ được bằng trực giác, chứ không qua ý niệm của sát na tâm thứ hai hay ngôn ngữ kiêu kỳ của ý niệm tri thức. Chàng đã thấy giọt sương đang hiện hữu trong từng giọt sương…

Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi…[7]

Những con sóng về năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức như những dòng chảy miên man vô tận, trôi hoài miên viễn trong dòng chảy cuộc đời, không hề dừng nghỉ.

Những sắc, thọ… kia, đã từng đưa ta về vui đùa cùng quá khứ. Chúng là không thật, không có tự thể.[8] Chúng là không. Và không những năm uẩn không có tự thể mà những thành tố tạo nên năm uẩn cũng vậy, đều không có tự tính riêng biệt.

Do một niệm sai thù mà ta rong ruỗi theo nó, đắm chìm vào biển mộng trùng khơi: nổi trôi như lá theo dòng, bao giờ dừng lại mà đong nỗi sầu…

Giác tánh viên minh, xưa nay vắng lặng; nếu không có ngã – nhân huyễn tướng thì nào có sanh – tử giả danh. Nhơn đầu tiên một niệm sai lầm, từ vọng tưởng có ngay sanh – diệt…[9]

Vị trí

Và tương lai, các uẩn cũng thế. Lưu động dịch chuyển như nước của dòng sông. Nó sống động, biến thiên không ngừng nghỉ, thệ giả như tư phù bất xả trú dạ, tạo nên trường thiên diễn vô tận của sương mai, của ráng chiều và của tâm thức giả huyễn.

Và pháp hiện tại, cũng chẳng sai khác như trên. “Ai đã từng tắm hai lần trên cùng một dòng nước”. Ai? Ai? Dù có chong đèn đi giữa ban ngày ở thành phố Hy Lạp như Hômeơ cũng chẳng bao giờ tìm ra “Con người” ấy. Huống gì với người mà chưa từng có một phút dừng chân, bừng niệm.

Em ơi dừng lại nghe sông trạo
Khúc hát ngàn xưa ngút muôn trùng
Bây chừ bao kẻ theo con sóng
Cứ mãi quanh năm vỗ chập chùng[10]

Ta dừng lại trong giây phút hiện tại, để nhìn rõ em, người con gái ngày xưa cùng một bản thể. Vì nguyện ước sai thù mà lưu lạc ngàn phương, bước hoang vu trên sa mạc hai ngàn năm phát tiết theo mộng yêu đương. “Như năm nào, chưa xa cách phân ly, cùng nguồn gốc bản thể, cội nguồn mênh mông bao la trùng điệp. Với nguyện ước năm nọ mà từ đó, người trời đông toả sáng. Tôi trời tây ấp ủ chiều tà.” Em là thân năm uẩn diệu kỳ, em hiện hữu như dòng sông xanh êm dịu tồn tại trong cuộc diệt – sinh, đắp đuổi nhau trổi lên như cánh bướm mùa xuân, không một chút dừng lại để ôm ấp nỗi đơn cô.

Ta nhìn nhận pháp hiện tại đang là, nhìn chúng dịch chuyển mà không hề khởi một niệm nắm bắt hay lưu giữ. Chỉ nhìn và nhìn mà thấy chúng diệt – sinh trong từng ý niệm. Chúng là không, là vô ngã. Chúng hiện hữu mầu nhiệm trong dòng chuyển dịch nhân duyên, nhân quả.

“Bạch mai, em đi mãi. Ta chìm vào cõi say”.[11] Cánh bạch mai lưu hiện, trôi chảy mãi trong dòng biến thiên, hằng chuyển như bộc lưu. Ta chìm vào cõi say để tỉnh. Ta bước vào cõi tỉnh để say. Sao có thể nói: “Thế gian giai trọc, ngã độc thanh”. Nhân duyên hội ngộ. Tương tức tương sinh. Tự nhiên như hơi thở của kiếp người, đâu dễ thiếu được.

Trong ánh sáng hiện tại, nội pháp và ngoại pháp hiện hữu rõ ràng, không sai chạy. Từ trong giây phút này, ta nhận ra các pháp hiện hữu trong quá khứ, có liên hệ chặc chẽ pháp hiện tại; và pháp tương lai cũng thế. Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là ý niệm, sản phẩm của tâm thức con người quy ước, chứ thời gian không hề có quá khứ, hiện tại và tương lai. Thời gian chỉ là thời gian. Và có dùng danh từ gì để gọi chăng nữa, nó vẫn là thời gian, như tự thân nó đang là.

Khi thấy rõ gốc rễ, nhân duyên, quả báo… của các pháp, làm sao còn bị đắm chìm hay rong ruỗi. Bao nhiêu ảo vọng, hy vọng, nuối tiếc đều dứt tuyệt. Mọi chướng ngại đều cáo chung, nó không còn cơ hội hiện khởi để đày đoạ kiếp người. Từ đây, nó vắng mặt trên cuộc trường, còn đâu xưng bá, xưng hùng. Còn đâu ngửa mặt mà xưng chúa trời.

Giây phút hiện tại mở ra một chân trời mới, hun đúc sức sống nhiệm mầu cho nhiều ngưỡng cửa thi ca, âm nhạc và hội hoạ. Và giải phóng con người ra khởi sự hoen ố tâm tư. Nhất là mở ra một kỷ nguyên mới, một chân trời thơ ca hùng vĩ, trỗi dậy nét đẹp uyên nguyên như em bé ngày đầu mở mắt nhìn đời. Những mảng văn lung linh kết tinh đời cô lữ, tuôn về từ chốn thần tiên. Những vần thơ trong suốt, nhẹ nhàng:

Chiếc ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao[12]

hay:

Giọt sương trong vừa rụng
Ánh nắng vàng đang bay
Chim hót như mọi ngày
Ta ra vườn quét lá [13]

Thực tại nhiệm mầu trong từng hạt nước, trong từng áng mây bàng bạc thong dong. Thế mà ngày xưa, có người dùng ngôn ngữ để diễn tả thực tại. Thật viễn vông và rỗng tuếch. Tri thức ơi, ngắn ngủn quá. Mây trôi, nắng giọt bắt dừng chăng?

Hương đất trời trổi khúc, hóa hiện những phương trời viễn mộng. Kiếp người như cánh nhạn chiều thu, thở hương đất, uống khí trời, dưỡng chí chân nhân. Hãy bắt đầu từ nơi không bắt đầu và kết thúc từ nơi chẳng kết thúc. Kiếp người mênh mang mà rõ ràng giữa chiêm bao mộng mị.

Rồi đây, con người sẽ định vị lại sự tồn tại của chính mình, nghĩa là thấy được mối tương quan giữa mình và đất trời và thấy sự có mặt của mình trong giây phút ấy. Có vậy, mới nhìn thấy được sự thật, chân lý cuộc đời, mà không bị lừa phỉnh. Vậy, ai bảo rằng, ta uổng phí một kiếp làm người?

Nhuận Triều Minh
Nguồn: lieuquanhue.vn

[1] Nhân đọc bài thơ Trầm mặc của Thầy Tuệ Sỹ, trích trong thi phẩm Giấc mơ Trường sơn, mà có đề tựa này. Nguyên văn bài thơ như sau: Anh ôm chồng sách cũ/ Trầm mặc những đêm dài/ Xót xa đời lữ khách/ Mệnh yểu thế mà hay.
[2] Tuệ Sỹ, bài Khung trời hội cũ, trích trong thi phẩm Giấc mơ Trường sơn, cập nhật từ mạng quangduc.com. (Xem thêm Bùi Giáng, Đi vào cõi thơ, để hiểu thêm về tác giả bài thơ này; bài cập nhật từ mạng quangduc.com).
[3] Bà Huyện Thanh Quan, Thăng long thành hoài cổ.
[4] ,
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày vắng xa quê vạn dặm trường. (Không rõ người dịch).
[5] Hán: . Theo Thực tại luận (Realism), Trung đạo là đường hướng lý tưởng trong đời sống thực tiễn; không lạc quan, cũng không bi quan. (Middle Path as the ideal way in practical life; neither optimistic nor pessimistic.). Theo Hư vô luận (Nihilism), Trung đạo hay chân lý đạt được do thừa nhận tính vô thể, không thừa nhận sự tồn tại cá thể (pudgala) cũng như tâm và vật (dharma). Tất cả đều quy về Niết Bàn. Hư vô luận đối lập với thực tại luận. (Middle Path or Truth attainable by the recognition of nonentity, admitting neither individuality (pudgala) nor reality of matter and mind (dharma). All end in Nirvana (Void). Nihilism as opposed to Realism.). Theo Duy tâm luận (Idealism), trung đạo hoặc chân lý là không nằm nơi thực tại của vạn hữu, bởi vì ở thế giới ngoại tại mọi vật không hiện hữu, cũng không nằm nơi không thực tại của vạn hữu, bởi vì chỉ có thức hiện hữu. (Middle Path or Truth lies neither in recognizing the reality of all things because outer things do not exist, nor in recognizing the non-reality of all things because ideation do exist.). Theo Phủ định luận (Negativism), trung đạo hoặc chân lý được đạt đến bằng hỗ tương phủ định của Bát bất hay phức trùng phủ định của Tứ cú. (Middle Path or Truth attained by either reciprocal negation or repetitional negation; reciprocal negation being the eight-fold denial of phenomena of being, and repetitional negation being the fourfold serial denial of the popular and the higher ideas. – Junjiro Takakusu, The Essentials of Buddhist Philosophy, Third Edition, 1956, Office Appliance Co., Ltd., Honolulu, p. 12).
[6] Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh.
[7] Đạo tràng Mai Thôn biên tập, Kinh Người biết sống một mình, trích trong Thiền môn nhật tụng năm 2000, Lá bối xuất bản, tr, 69. (Đoạn trên được dịch từ tạng Pàli, Nam truyền). Hệ Bắc truyền, chúng tôi thấy, trong Phật Thuyết Tôn Thượng Kinh (Đại 1 No. 77, tr. 886a23), do Ngài Trúc Pháp Hộ nước Nhục Chi dịch, nguyên văn Hán như sau:   Quá khứ đương bất ức/ Đương lai vô cầu niệm/ Quá khứ dĩ tận diệt / Đương lai vô sở đắc / Vị hiện tại chi pháp / Bỉ bỉ đương tư duy / Sở niệm phi lao cố / Trí giả năng tự giác v.v. (Quá khứ đừng hoài tưởng / Tương lai không mong cầu / Pháp quá khứ diệt rồi / Pháp tương lai chưa nắm / Pháp liên hệ hiện tại / Hãy quán sâu pháp ấy / Bậc trí thường tự giác v.v). Và trong Thích trung thiền thất tôn kinh (Đại 1 No. 166, tr. 698c3), A Nan Thuyết kinh (Đại 1 No. 167, tr. 699c27), Ôn Tuyền Lâm Thiên kinh (Đại 1 No. 165, tr. 696b23), như sau:     Thận mạc niệm quá khứ / Diệc vật nguyện vị lai/ Quá khứ sự dĩ diệt / Vị lai phục vị chí / Hiện tại sở hữu pháp / Bỉ diệc đương vi tư / Niệm vô hữu kiên cường / Huệ giả giác như  thị v.v. (Đừng truy niệm quá khứ / Và ước vọng vị lai / Pháp quá khứ đã diệt / Pháp tương lai chưa đến / Pháp nào đang hiện tại / Hãy quán sâu pháp ấy / Kiên cố, không lay chuyển / Bậc tuệ tu như vậy v.v.).
[8] Tuệ Sỹ, Cửa vào tuyệt đối, trích trong Tập san Nghiên cứu Phật học, Phật giáo Thừa Thiên – Huế, số 10, Vu Lan PL. 2548, tr. 61: “Năm uẩn này tan rã, thúc đẩy sự  phát sinh của năm uẩn khác, như từng con sóng xô nhau ngoài đại dương, tạo thành ảo ảnh về một tự ngã thường hằng tồn tại bên dưới hay bên trong tất cả những vô thường biến đổi ấy. Không chấp nhận tự ngã thường hằng, cũng không chấp thủ quan điểm đoạn diệt, hư vô. Vì vậy, những điều Phật nói, trong một giới hạn khả dĩ của tư duy suy lý, có thể diễn dịch thành sự xác nhận tồn tại một tự ngã, mà cũng có thể tuyệt đối phủ định sự tồn tại như vậy. Đó là sự sai biệt giữa hai tầm nhìn: nhìn từ Tục đế và nhìn từ Chân đế. Tức thực tại được quán chiếu trong tương quan hiện hữu, hay trong Thật tế Chân như. Chỉ là cách nhìn hay hướng nhìn sai biệt, thực tại vẫn như thế đó.”
[9] Phiên âm: Giác tánh viên minh, tùng lai trạm tịch, bổn vô ngã nhơn huyễn tướng, hà hữu sanh hữu diệt chi giả danh, nhân tối sơ nhứt niệm sai thù, tùy mộng tưởng hữu tư sanh diệt… (Thích Giải Năng biên soạn, Nghi lễ Phật Giáo Tán tụng, PL. 2544, DL. 2001, tr.16.)
[10] Bình Nguyên Nhuận Triều Minh, Không đề (5), trích trong thi phẩm Nhỏ giọt thông xanh, Đà Nẵng 2002, tr. 66.
[11] Nhuận Triều Minh, Bạch mai trong cõi mộng, trong Tập san Bắc một nhịp cầu, mùa thu 2002, Tăng sinh Viện Cao đẳng Phật học Từ Hiếu – Huế, tr. 42.
[12] Thơ Matsuo Bashô (1664 – 1694).
[13] Thơ Tánh Thuận.

Ga cuối.

 

Chìm sâu trong tiềm thức của chúng ta là một hình ảnh hoàn hảo về cuộc sống! Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang đi trên một cuộc hành trình bằng xe lửa xuyên qua lục địa. Chúng ta băng qua cảnh xe hơi chạy trên xa lộ, cảnh trẻ em vẫy chào trên đường băng qua phố, cảnh sườn đồi xanh mướt xa xa có đàn bò gặm cỏ, cảnh khói trắng tuôn ra từ nhà máy, cảnh bình nguyên, thung lũng hẹp, núi đồi chen nhau, cảnh đường chân trời và làng mạc.

Dường như ngự trị cao nhất trong tâm trí chúng ta là cảnh ga cuối cùng. Vào một ngày nào đó, một giờ nào đó chúng ta sẽ vào sân ga cuối. Cờ được vẫy chào và nhạc sẽ được cử lên. Khi chúng ta tới đó, ước mơ thành hiện thực và cuộc sống sẽ hoàn chỉnh giống như hoàn thiện một truyện tranh lắp ghép hình. Chúng ta vẫn chờ đợi giờ phút tới ga cuối, đi không biết mệt mỏi và không chút nghỉ ngơi.

"Tới nơi rồi đây" - chúng ta reo lên. "Khi tôi mười tám tuổi", "Khi tôi mua một chiếc Mercedes Benz 450SL", "Khi con út tôi vào đại học", "Khi tôi trả hết tiền thế chấp", "Khi tôi được đề bạt thăng chức", "Khi tôi đến tuổi hưu... và tôi sẽ sống thoải mái”. …

Chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ ý thức được là không có một chỗ đích nào để chúng ta đến. Hạnh phúc của cuộc sống là trên chuyến đi. "Ga Cuối" chỉ là một giấc mơ, và thường vượt quá tầm với của chúng ta.

Vui hưởng với thực tại đi. Thực tại không phải là gánh nặng của hôm nay mà làm cho ta điên dại. Chúng cũng không phải là sự nuối tiếc quá khứ và sự sợ hãi của tương lai. Nuối tiếc và sợ hãi là hai nguyên nhân song sinh cướp đi mất vui thú thực tại của chúng ta.

Cho nên đừng vội rong ruổi đếm mau những dặm đường, mà hãy để thời gian leo núi, tắm sông, ngắm nhìn hoàng hôn, vui nhiều, buồn nhiều. Cuộc sống phải được tận hưởng qua từng khoảnh khắc bởi từng khoảnh khắc đều có mục đích riêng của nó. Từng khoảnh khắc đều có giá trị cố hữu của nó, và rồi ta sẽ tới đích.

Rober J.Hastings

Bệnh bận rộn!

 

Hầu hết mọi người đều cố gắng bận rộn liên miên, bận rộn hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Khi bận rộn, bạn trông có vẻ hạnh phúc, và khi rảnh rỗi thì bạn không vui. Các nhà tâm lý nói, nếu không có gì làm trong một thời gian dài, người ta sẽ hóa điên. Nhưng tại sao? Nếu lành mạnh, tại sao bạn sẽ phát điên nếu bạn quá nhàn rỗi trong một thời gian dài? Nếu bạn lành mạnh thì trong một thời kỳ lười biếng lâu dài, chỉ biết ăn không ngồi rồi, bạn sẽ trở nên lành mạnh, bạn sẽ tăng trưởng hơn. Nhưng tại sao bạn lại trở thành điên rồ, nếu không làm gì trong một thời kỳ dài? – bởi vì bạn đã điên rồ sẵn rồi! Sự bận rộn của bạn chỉ che giấu sự thật đó.

Hãy nhìn quanh – bởi vì quan sát chính mình khó hơn. Hãy quan sát người khác. Tất cả đều bận rộn về tiền bạc. Họ đang làm gì vậy? Họ chú tâm vào tiền bạc để tìm quên chính mình. Họ luôn luôn nghĩ đến tiền, từ sáng, đến tối, rồi đêm khuya. Thậm chí ngủ rồi mà họ vẫn nghĩ về tiền và trương mục ngân hàng. Họ sẽ làm gì với tiền đó? Cho nên khi có tiền rồi, họ chẳng biết phải làm gì với số tiền đó? Vì vậy khi có được cái mà họ mong muốn, họ sẽ nghĩ về nhiều tiền hơn nữa, bởi vì tiền không phải là cái mà họ thật sự muốn. Không. Khi có tiền rồi, họ phải cảm thấy thỏa mãn, nhưng giàu nứt vách như Rockefeller, hoặc Ford cũng không thỏa mãn.

Khi đã có tiền rồi, lập tức bạn muốn nhiều hơn nữa, vì động lực chính không phải tiền, mà là làm sao luôn luôn được bận rộn. Mỗi khi nhàn rỗi thì bạn không thấy thoải mái, bạn cảm thấy bồn chồn. Phải làm gì? Nếu không kiếm được gì làm, bạn sẽ giở chồng báo cũ ra mà nhai lại - cũng tờ báo đã bạc màu ấy. Nếu không có gì để làm, bạn có thể làm những việc không cần thiết chút nào cả, nhưng nó giúp bạn giết thì giờ. Cho nên tất cả các đạo sư đều dạy rằng, nếu bạn có thể ngồi yên một giờ mà không làm gì cả, chẳng mấy chốc bạn sẽ chứng ngộ.

Trạng thái nhàn rỗi của tâm trí là tĩnh tâm, là thiền định. Trạng thái bận rộn của tâm trí là thế giới. Chẳng cần biết bận rộn thuộc loại nào - dù là tiền bạc, hoặc chính trị, hoặc xã hội, hoặc cách mạng, cũng chẳng khác nhau: sự lành mạnh của bạn cũng như nhau. Nếu bắt Lenin ngồi không, ông ta sẽ phát điên: ông ta cần xã hội và cách mạng; nếu không có gì để làm, khó mà ông ta tìm được lý do để sống, sự lành mạnh của ông ta sẽ bị mất. Vì có bạn nên ông ta mới tìm được lẽ sống. Vì quá bề bộn với công việc nên bạn mệt nhoài, và nó cho bạn một giấc ngủ ngon.

Những người có tuổi phần đông là lập dị, điên, khùng, và lý do là họ không có gì để làm. Tuổi già không phải là lý do: họ quá nhàn rỗi, và không ai cần đến họ nữa. Những người về hưu phần lớn là kỳ cục. Ít nhiều họ đều khác thường. Thể xác thì không sao cả. Mà nếu là tổng thống, hoặc thủ tướng của một nước, nhưng cho ông ấy về hưu thì sẽ biết gì sẽ xảy ra ngay. Ông ta thay đổi lập tức. Cả thân lẫn tâm của ông ta trở nên suy thoái; ông ta tỏ ra lập dị, điên điên, khùng khùng, vì không có gì để làm, và không ai để ý đến ông ta nữa, không ai quan tâm đến ông ta nữa. Ông ta không tìm được gì để làm, không có chỗ để tập trung tâm trí. Sự rối loạn gặm nhấm bên trong – ông ta bị rối loạn.

Các nhà tâm lý nói rằng những người về hưu thường chết sớm mười năm, nếu không cái gì để làm. Cái gì đã xảy ra? Tại sao bạn không thoải mái với chính mình được? Và bạn luôn luôn nghĩ là người khác phải cảm thấy vui sướng với bạn. Vợ bạn phải hạnh phúc với bạn, chồng của bạn phải hạnh phúc với bạn. Mà bạn không bao giờ cảm thấy hạnh phúc với chính mình. Sao người khác có thể cảm thấy hạnh phúc với bạn được? Bạn cũng chẳng thấy có gì lý thú nơi chính mình. Vậy thì sao người khác có thể chịu đựng bạn được? Họ chịu đựng bạn vì lý do khác - không phải vì bạn là người dễ thương. Không! Họ chịu đựng bạn vì bạn giúp họ bận rộn. Chồng thì cả ngày điên đầu vì vợ, còn vợ thì bận rộn vì chồng cũng hết ngày. Ðây là một sự đổi chác hỗ tương: họ đồng ý lừa dối lẫn nhau, và giúp đỡ lẫn nhau bận rộn.

Theo Osho
Xem thêm: Hội chứng bận rộn trong cuộc sống

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người!

 

"Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn, tình yêu là vô hạn" - Nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn khi sinh thời đã từng nói như thế, viết như thế.

Mỗi khi buồn, tôi thường tìm nghe bản nhạc Trịnh nào đó như một bản năng. Tôi cũng không hiểu vì sao…Có lẽ là vì cảm giác vô hình về một bàn tay chạm nhẹ vào nỗi buồn sâu thẳm trong tôi, và khẽ khàng xoa dịu nó! Tôi luôn muốn lý giải điều đó, nhưng thật khó khăn giống như việc cắt nghĩa những ca từ triết học của Trịnh vậy.

Những ca khúc của Trịnh, giống như cơn gió tình yêu cuộc sống dịu dàng lùa vào trái tim. Lòng lại tự nhủ rằng “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”. Vâng, dù chỉ để gió cuốn đi thôi, bạn nhé bởi vì “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.

Tôi những muốn “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” và sẽ “yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người”…Một thứ âm hưởng nhẹ nhàng thoát ra từ những lời ca ấy.

Khi chia tay với mối tình đầu, nghe ca khúc “Như một lời chia tay” tôi lại thấy lòng mình nhẹ như mây bay, thấy một đoá hoa vàng mỏng manh nơi cuối trời thật đẹp. Chợt chiêm nghiệm ra một điều giản dị rằng: “Tôi đi bằng nhịp điệu/ Một, hai, ba, bốn, năm/ Em đi bằng nhịp điệu/ Sáu, bảy, tám, chín, mười/ Ta đi bằng nhịp điệu, nhịp điệu không giống nhau/ Ta đi bằng nhịp điệu, nhịp điệu sao khác màu” cho nên “làm sao ta gặp, làm sao ta gặp được nhau…”, nhưng vẫn muốn gửi tới một người lời tạ từ: “dù đến rồi đi ta cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời…”

Những ca khúc của Trịnh Công Sơn thoát thai từ cuộc sống, giản dị mà cũng sâu sắc như chính cuộc sống vậy. Và vì thế mỗi người luôn tìm được điều gì đó thật gần gũi trong mỗi lời ca ấy. Nghe nhạc Trịnh có thể ta chưa hiểu hết lời nhưng vẫn cảm nhận được một sự đồng cảm vô hình nhẹ nhàng chạm tới trái tim

Và có lẽ không thể không nói tới Diễm xưa trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Diễm xưa đã vượt qua “những mùa mưa nắng khắc nghiệt” sống mãi trong lòng bao thế hệ người nghe nhạc bằng một thứ triết lý sâu sắc đến đớn đau: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”

Diễm xưa, gợi cho ta nhớ về xứ Huế của những tháng năm cách đây hơn nửa thế kỉ. Cố đô lặng lẽ như một giấc chiêm bao đã đi vào thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đầy hư ảo: “Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay/ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”

Mảnh đất vốn mang nhiều bóng hình của quá khứ với những đền đài, lăng tẩm ấy là nơi ghi đậm dấu ấn của mối tình éo le của người nhạc sĩ tài hoa:

Mưa vẫn bay bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thủa mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu

Xuyên suốt bài hát là bóng hình mong manh của cô thiếu nữ xứ Huế đi về trên những con đường “hun hút” và cả trong nỗi khắc khoải mong chờ của người nghệ sỹ. “Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường Đại học Văn khoa ở Huế. Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua” – Ấy là giai thoại nổi tiếng do chính tác giả đã kể lại về mối tình đã tạo nên bản tình ca Diễm xưa mĩ lệ.

Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa

Thật khó có thể cắt nghĩa được vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo của Diễm xưa. Phải chăng, đó là do những triết lý mang chiều sâu nhân sinh trong sự hoà quyện cái vô sắc, vô hình, và cái hư ảo của tình yêu tuổi trẻ? Mỗi lần nghe những câu hát đó, tôi lại cảm thấy nỗi đau cứa qua tâm hồn:

Mưa vẫn hay mưa, cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…

Diễm xưa đã được dịch ra tiếng Nhật dưới nhan đề Utsukushii mukashi (tạm dịch là Nét đẹp xưa) và sau này được thể hiện bởi giọng ca trứ danh Yoshimi Tendo. Utsukushii mukashi được đánh giá là một trong những bản tình ca hay nhất mọi thời đại của Nhật Bản:
Ai là người đã bảo tôi rằng
Nơi cuối con đường ấy có tình yêu
Tình yêu mà em không hề biết
Phải chăng đấy là lời của gió
Hay những lời đồn thổi

Giá như em có thể ở bên tôi
Ở bên tôi mà không hề biết đến tình yêu
Tôi đã mơ thấy
Giờ đây tôi ở bên em
Cho đến cuối cuộc đời
Vậy mà…

Giờ đây ở phía cuối con đường
Tôi vẫn tìm kiếm tình yêu
Còn em
Em đã biến mất theo làn mưa

(Tạm dịch Diễm xưa từ lời tiếng Nhật)

Có lẽ Diễm xưa đã chinh phục người Nhật bởi giai điệu khắc khoải, sâu lắng thực sự gần gũi với mỹ cảm của họ. Trên phương diện nào đó, âm nhạc của Trịnh Công Sơn dường như giúp ta thấy sự giao cảm giữa tâm hồn của hai dân tộc. Và tôi tự hỏi, trong những bản tình ca hay nhất của Việt Nam, liệu có thể thiếu Diễm xưa?

Lê Anh - Nguyên Anh
40% Off